Bối cảnh Trận_Thuận_Xương

Cuối năm 1138 (năm Thiệu Hưng thứ 8 thời Tống Cao Tông, năm Thiên Quyến đầu tiên thời Kim Hi Tông), phe chủ hòa của 2 nước Tống (đại biểu là Tần Cối) – Kim (đại biểu là Hoàn Nhan Xương) đắc thế, đôi bên ký kết hòa ước. Đầu năm 1139, Tống Cao Tông đại xá cả nước, nhà Tống tiếp quản những khu vực ở Hà Nam và Thiểm Tây mà nhà Kim trả lại, bao gồm 3 kinh (Đông Kinh Khai Phong phủ, Tây Kinh Hà Nam phủ và Nam Kinh Ứng Thiên phủ).[1] Nhưng cùng năm, phe chủ hòa của Kim thất thế, Hoàn Nhan Xương bị kết tội mưu phản và bị Hoàn Nhan Tông Bật đuổi giết.[2]

Ngày 25 tháng 2 năm 1140, nhà Tống lấy Chủ quản thị vệ mã quân tư Lưu Kỹ sung làm Đông Kinh phó lưu thủ, Tiết chế quân mã.[3] Lưu Kỹ soái quân bản bộ lên đường, mang theo cả gia quyến của tướng sĩ, dự định quân đội sẽ đồn trú ở Biện Kinh (tức Đông Kinh) [lower-alpha 2], còn quyến thuộc làm nhà ở phủ Thuận Xương [lower-alpha 3]. Quân Tống ngược dòng Trường Giang, vượt qua sông Hoài, phải đi cả thảy 2,200 dặm; đến Qua Khẩu [lower-alpha 4], sắp ăn cơm, thì gió lớn thổi tung màn trướng. Tống soái Lưu Kỹ nói: “Đây là điềm có giặc đấy, chủ về bạo binh.” Rồi lập tức hạ lệnh tiến quân, ngày đêm không nghỉ.[4] Ngày 20 tháng 5, Kim Hi Tông giáng chiếu thu hồi những vùng đất đã cắt nhượng theo hòa ước,[5] lúc này Lưu Kỹ còn cách Thuận Xương 300 dặm. Lưu Kỹ cùng tướng tá bỏ thuyền lên bờ, tiến vào phủ thành Thuận Xương.[4]

Ngày 30 tháng 5, Đô nguyên soái của Kim là Việt quốc vương Hoàn Nhan Tông Bật tiến vào Đông Kinh, lưu thủ của Tống là Mạnh Canh dâng thành đầu hàng. Tri Hưng Nhân phủ Lý Sư Hùng, Tri Hoài Ninh phủ Lý Chánh Dân đều xin hàng, các quận Hà Nam nối nhau quy hàng nhà Kim. Ngày 3 tháng 6, tin tức Đông Kinh thất thủ truyền đến phủ Thuận Xương. Sáng hôm sau, người Thuận Xương lại nghe tin thiết kỵ của Kim đã tiến vào Trần Châu [lower-alpha 5], cách Thuận Xương chỉ còn 300 dặm.[5]

Liên quan